NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU


Join the forum, it's quick and easy

NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 


Rechercher Advanced Search

Affiliates
free forum


Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng

2 posters

Go down

Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng Empty Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng

Bài gửi by ducthang 02/11/09, 04:32 pm

Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng.



Bài từ Tủ sách Khoa học VLOS.




Mục lục




if (window.showTocToggle) { var tocShowText = "xem"; var tocHideText = "giấu"; showTocToggle(); }
Dẫn nhập



Trong quá trình sử dụng ngoại ngữ và dịch thuật, văn bản là công cụ
không thể thiếu. Hiện nay, các thể loại văn bản tiếng Việt và tiếng Anh
đang được sử dụng nhiều nhất trong giao tiếp. Ngữ pháp văn bản tiếng
Việt và tiếng Anh là mục tiêu và đối tượng cần chú ý nhất trong quá
trình dạy và học tiếng Anh, cũng như dịch thuật Anh - Việt và Việt -
Anh.

Theo các nghiên cứu ban đầu của chúng tôi, cần thiết phải có
các tài liệu ngữ pháp đối với các văn bản mang đặc tính chuyên ngành
dưới dạng đối chiếu giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ được học hoặc nghiên
cứu nhằm giúp người học hoặc nghiên cứu tiếp nhận một cách nhanh chóng
các kiến thức tiên tiến bằng ngoại ngữ. Hơn thế nữa, trên cơ sở ngữ
pháp được học, người học có thể nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn
bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình và làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc.

Thực tế lịch sử phát triển của tri thức khoa học thể hiện một
quá trình liên tục và có tính kế thừa. Nội dung của các thuật ngữ về
nghiên cứu đối chiếu cũng được xác định trong quá trình phát triển biện
chứng lịch sử đó.

Thuật ngữ "đối chiếu" thường được dùng để chỉ phương pháp hoặc
phân ngành nghiên cứu lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ.
Mục đích của nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ là làm sáng tỏ những nét
tương đồng và không tương đồng hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét không
tương đồng của hai hay nhiều ngôn ngữ. Nguyên tắc nghiên cứu chủ yếu
của đối chiếu ngôn ngữ là nguyên tắc đồng đại.

Trong các tài liệu bằng tiếng Nga, thuật ngữ "đối chiếu ngôn
ngữ" (phương pháp đối chiếu, ngôn ngữ học đối chiếu) được đưa vào sử
dụng khá sớm bởi các nhà ngôn ngữ học như E.D.Polivanov (1933),
V.D.Arakin (1946), V.H.Jaxeva (1960), V.G.Gak (1961), N.P.Fedorov
(1961), O.C.Akanova (1966) và v.v. Từ 1970 đến nay, trong ngôn ngữ học
hiện đại, thuật ngữ được sử dụng nhiều hơn cả là "ngôn ngữ học đối
chiếu" (contrastive linguistics.

Trong các tài liệu bằng tiếng Anh, lúc đầu được phổ biến là
thuật ngữ "so sánh" (comparative) với nội dung đối chiếu. Từ năm 1960
trở về đây, thuật ngữ "ngôn ngữ học đối chiếu" (contrastive
linguistics) bắt đầu được sử dụng phổ biến, dần dần thay thế cho thuật
ngữ "so sánh" (comparative). Tuy nhiên, trong ngôn ngữ học Anh, các
thuật ngữ truyền thống được dùng tương đối lâu dài. Ví du, trong các
công trình của Haliday, Mackintơn, Tơrevưn và một số tác giả khác,
thuật ngữ "so sánh" (comparative) vẫn được sử dụng đến năm 1961, còn
Elie đã dùng thuật ngữ "comparative" với nghĩa đối chiếu cho đến năm
1966.

Theo từ điển nhiều tập Oxford (1933), tính từ "comparative"
được định nghĩa căn cứ vào cách dùng của từ này khoảng cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX. Nội dung nghĩa thường nhấn mạnh đối chiếu những điểm
khác nhau giữa hai hoặc hơn hai đối tượng được khảo sát, theo thời
gian, thuật ngữ "đối chiếu" được sử dụng với nghĩa mở rộng để chỉ đúng
hiện thực nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ.

Trong các tài liệu bằng tiếng Pháp, việc sử dụng thuật ngữ "đối
chiếu" cũng diễn ra tương tự: thời kì đầu sử dụng thuật ngữ "comparée"
và các từ phái sinh của nó. Sau đó, thuật ngữ "contrastive" được thay
thế cho "comparative" mang nghĩa đối chiếu và ngày càng được sử dụng
rộng rãi (Potie 1971, Duboa 1973, Gato 1974, Pioro 1977 và v.v.). Hiện
nay, trong các tài liệu bằng tiếng Pháp thường sử dụng phổ biến thuật
ngữ "linguistique contrastive" (hoặc differentielle). Tương ứng với
thuật ngữ này, trong các tài liệu tiếng Nga thường sử dụng
"контративная лингвистика" của các tác giả V.G.Gak và A.B.Fedorov.‎ ‎
‎‎

Đối chiếu các ngôn ngữ



Đối chiếu các ngôn ngữ cho khả năng xác định không chỉ các dữ kiện
và hiện tượng có các chức năng tương tự trong các ngôn ngữ được đối
chiếu, mà còn xác định vị trí của chúng trong các hệ thống theo chức
năng. Ví dụ, khi đề cập đến hệ thống các phương tiện mang nghĩa chỉ
hành động, có thể nói rằng trong tiếng Anh tiếp tố -er chắc chắn là hạt
nhân của hệ thống chức năng các phương tiện tạo ra danh từ chỉ vật mang
hành động, hơn nữa, tiếp tố này có khả năng to lớn trong việc tạo lập
các danh từ trên cơ sở một động từ bất kì. Trong tiếng Việt, nhân tố
được dùng để tạo từ chỉ người hành động thường là từ riêng biệt và được
gọi là từ tố, ví dụ "viên" trong các từ nhân viên, sinh viên, viên chức
và v.v.

Nghiên cứu đối chiếu ngữ pháp trong văn bản khoa học giải quyết
các quan hệ tương đồng và không tương đồng về cấu trúc và hoạt động của
ngôn ngữ khoa học. Trong phân tích đối chiếu ngôn ngữ, các hiện tượng
ngôn ngữ càng giống nhau thì càng có nhiều tương đồng về cấu trúc và
hoạt động của ngôn ngữ được đối chiếu. Ví dụ, khi đối chiếu tiếng Việt
với tiếng Hán hoặc với tiếng Thái thì mức độ giống nhau nhiều hơn là
đối chiếu tiếng Việt với tiếng Anh, tiếng Nga hoặc tiếng Bun. Trong
trường hợp đối chiếu các ngôn ngữ rất khác nhau về loại hình thì sẽ tìm
thấy nhiều điểm khác nhau về cấu trúc và hoạt động của ngôn ngữ. Sự
khác nhau này có tính hệ thống, khái quát (thanh điệu trong tiếng Việt,
cách trong tiếng Nga v.v.). Nếu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Anh thì
sẽ tìm thấy nhiều điểm giống nhau hơn trong ngôn ngữ (cùng là các ngôn
ngữ phân tích tính, trật tự câu rõ ràng v.v.). Trong các ngôn ngữ khi
đối chiếu luôn tồn tại sự không tương đồng về ngữ pháp, ngữ nghĩa hoặc
tuyến dẫn xuất nghĩa phái sinh. Ví dụ, từ loại tiếng Việt và tiếng Anh
có sự không tương đồng về số lượng và loại hình.

Sự không tương đồng về nghĩa thể hiện cả ở khái niệm ngữ nghĩa
của từ, ví dụ, các sắc thái về mầu sắc là không như nhau trong cả hai
ngôn ngữ Anh và Việt: từ blue tiếng Anh được chuyển dịch sang tiếng
Việt với hai nghĩa xanh lơ và xanh nước biển. Mầu sắc trong tiếng Việt
được thể hiện bằng các từ theo mô hình hợp nghĩa, phụ nghĩa và láy lại
để tạo ra hàng loạt đơn vị ngôn ngữ với sắc thái chi tiết hơn so với từ
chỉ mầu sắc trong tiếng Anh, ví dụ: xanh - xanh xanh, xanh nhạt, xanh
thắm, xanh da trời, xanh nõn chuối, xanh nước biển, xanh biếc (biêng
biếc), xanh lè, xanh lục, xanh thổ cẩm, xanh cẩm thạch, xanh rêu...

Trong hệ thống ngữ pháp tiếng Anh hiện đại không tồn tại phạm
trù cách và giống, không có khái niệm hai động từ đối lập nhau: chưa
hoàn thành thể / hoàn thành thể, ví dụ như trong tiếng Nga. Phần lớn
các cụm từ tiếng Anh được thể hiện ở dạng cụm từ chính phụ, chính xác
hơn, ở dạng cụm từ cố định hoặc thành ngữ (phrases). Các cụm từ này
được tạo thành trên cơ sở liên kết phụ thuộc, bao gồm hai thành tố:
thành tố chính (hạt nhân) - kernel và thành tố phụ (bổ sung từ) -
adjunct. Cũng như tiếng Việt, trật tự các thành phần của cụm từ tiếng
Anh có ý nghĩa chủ yếu: một danh từ bất kì đứng trước một danh từ khác
đều thực hiện chức năng định ngữ, ví dụ :

An air-flow meter - khí cụ đo lưu lượng không khí

Anticorrosive paint - sơn chống gỉ

Liên kết chính phụ không chỉ được thể hiện ở cụm danh từ, mà còn
ở cụm động từ (to work hard, to fly a plane, to decide to stay, to
begin singing, to wait for news...), cụm tính từ (very difficult, proud
of his son,...).

Có thể thấy rõ rằng trong tiếng Việt và trong tiếng Anh cấu
trúc câu cùng tuân thủ một trật tự là C - P - O. Thành phần chính của
cấu trúc câu trong cả hai ngôn ngữ Việt và Anh là chủ ngữ S và vị ngữ
V, hạt nhân của cấu trúc câu là vị ngữ V. Vị ngữ là thành phần thiết
yếu, không thể thiếu trong cấu trúc một câu bất kì, bởi vì nếu thiếu vị
ngữ thì không tồn tại tính vị ngữ của cấu trúc câu, nghĩa là không tồn
tại sự biểu thị các quan hệ thông báo đối với hiện thực. Chủ ngữ cũng
là thành phần cần thiết trong phần lớn các cấu trúc câu, bởi vì nó chỉ
nghĩa sự vật của lời nói hoặc văn bản tạo nên cơ sở nội dung trần
thuật, và do đó, tạo nên nội dung giao tiếp. Câu có cấu trúc gồm cả chủ
ngữ và vị ngữ thì được gọi là câu hai thành phần.

Trong tiếng Việt và tiếng Anh, vị trí các thành phần của câu
đều có vai trò quan trọng trong cấu trúc câu. Việc thay đổi vị trí của
vị ngữ (vật mang thông tin chủ yếu của câu) đối với chủ ngữ, nghĩa là
thay đổi trật tự từ trong cấu trúc câu thường dẫn đến việc nội dung
thông báo của câu bị thay đổi, hơn nữa, có thể dẫn đến sự thay đổi cả
hình thức cấu trúc câu và sắc thái của nó. Vị trí của vị ngữ đối với
chủ ngữ có thể rất đa dạng ở các ngôn ngữ khác nhau. Phần đối chiếu này
không hạn chế trong phạm vi hai ngôn ngữ Việt - Anh. Nghiên cứu có thể
được mở rộng hơn đối với các ngôn ngữ khác để trên cơ sở này người học
có thể phát triển nghiên cứu đối chiếu không chỉ hai ngôn ngữ Việt -
Anh, mà còn đối với các ngôn ngữ khác.

Phạm vi đối chiếu có thể được phân định theo các nguyên tắc sau:

- Làm sáng tỏ đặc điểm thể hiện các phạm trù ở ngôn ngữ được
nghiên cứu như thời, thể, xác định, không xác định, phạm trù giống, số,
cách, đa nghĩa, đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa v.v.

- Đối chiếu các đặc điểm cấu tạo âm vị, hình vị, từ loại, cú pháp v.v.

- Đối chiếu các đặc điểm hoạt động, hành chức của các hiện tượng, phạm trù ngôn ngữ trong giới hạn các cấp độ.

- Đối chiếu các phong cách chức năng.

- Đối chiếu tiến trình phát triển nhằm làm sáng tỏ các quy luật
phát triển và quá trình biến đổi xảy ra trong nội bộ các ngôn ngữ được
nghiên cứu.

Các phương thức phân tích đối chiếu



Phương thức phân tích đối chiếu cấu trúc thường bắt đầu bằng đối
chiếu đơn vị, thành phần và cuối cùng là đối chiếu hệ thống. Nghiên cứu
đối chiếu này được thể hiện ở chỗ, qua giao tiếp, khả năng vật chất của
các ngôn ngữ được sử dụng là không như nhau: trong tiếng Anh, Nga, Pháp
đều có trọng âm từ, song chức năng của trọng âm trong tiếng Nga và Pháp
nhiều hơn do cùng loại hình, trọng âm tiếng Việt được thể hiện bằng
thanh điệu. Nếu đối chiếu hai ngôn ngữ Việt - Anh, có thể thấy rằng
trong tiếng Việt và tiếng Anh có nhiều điểm giống nhau về trọng âm đơn
do cùng ngôn ngữ phân tích tính. Một ví dụ khác, trong các ngôn ngữ có
cùng một hiện tượng mà khả năng hoàn thành chức năng, phạm vi hoạt động
không giống nhau như khu biệt âm vị dài ngắn trong tiếng Anh và tiếng
Việt: a (dài/ngắn), i (dài/ngắn) có ý nghĩa âm vị học trong tiếng Anh,
còn trong tiếng Việt thì không có hiện tượng ngôn ngữ này.

Phương thức phân tích đối chiếu hoạt động của ngôn ngữ trong
giao tiếp là phương thức được sử dụng để xác định tính phổ cập hoặc hạn
chế của các hiện tượng ngôn ngữ hoặc của các sự kiện ngôn ngữ tồn tại
trong các ngôn ngữ được đối chiếu. Phương thức này cho thấy hoạt động
ngôn ngữ được thể hiện rõ nét ở ngôn ngữ này, nhưng không được thể hiện
rõ ở ngôn ngữ khác. Ví dụ, xét trên bình diện số lượng từ vay mượn
trong tiếng Việt và tiếng Anh thì tiếng Việt chịu sự vay mượn từ nhiều
hơn tiếng Anh, hơn nữa, tiếng Việt vay mượn cả các từ tiếng Anh. Ngoài
ra, tiếng Việt còn vay mượn từ của tiếng Hán, Pháp và Nga. Tiếng Anh
vay mượn từ chủ yếu từ tiếng Pháp và Latin (ngôn ngữ dòng Ấn - Âu). Có
sự hoạt động của các từ vay mượn trong các ngôn ngữ Việt và Anh là do
hệ quả của các quan hệ loại hình và tiếp xúc khu vực, văn hóa và lịch
sử quy định. Một ví dụ khác, trật tự từ trong nhiều ngôn ngữ thường có
các đặc điểm khác nhau. Trong tiếng Nga, trật tự từ chặt chẽ có phạm vi
hoạt động rất hạn chế, trong khi đó, phạm vi hoạt động của trật tự từ
trong tiếng Việt, tiếng Anh lại rất lớn do mang đặc trưng của các ngôn
ngữ phân tích tính. Hơn nữa, trật tự từ trong tiếng Việt được thực hiện
một cách rất chặt chẽ và nghiêm ngặt do chịu ảnh hưởng của một ngôn ngữ
đơn lập (không biến hình).
Phương thức phân tích đối chiếu phát triển được sử dụng để xác
định đặc điểm và hướng phát triển của các ngôn ngữ. Sự phát triển ngôn
ngữ thể hiện ở các thay đổi cấu trúc nội bộ, phạm vi hoạt động, chức
năng của nó trong các mối quan hệ tương ứng với tiến trình phát triển
xã hội và lịch sử. Ví dụ, khi so sánh tiếng Việt và tiếng Anh trên bình
diện phát triển thì thấy tiếng Việt ngày nay không còn được hoàn toàn
như tiếng Nôm trước đây về cấu tạo từ và câu. Trong khi đó, tiếng Anh
hầu như không thay đổi. Qua đối chiếu có thể thấy các ngôn ngữ đã trải
qua các giai đoạn phát triển nào. Trên cơ sở này có thể phân loại các
đặc điểm cấu trúc đồng đại của ngôn ngữ trong các mối quan hệ đối
chiếu.

Vấn đề các đặc điểm ngôn ngữ luôn gắn liền với vấn đề về mục
đích dạy và học ngoại ngữ như ngôn ngữ thứ hai trong quá trình học tập
và giảng dạy. Vấn đề chủ yếu ở đây là hoạt động lời nói bằng ngoại ngữ
của người học phải đạt kết quả khả quan.

Phương pháp tối ưu cho việc học ngoại ngữ là quá trình tiếp
nhận các cấu trúc ngữ pháp bằng tiếng mẹ đẻ có thể diễn ra ở người học
một cách tự động và chuyển dịch được sang ngoại ngữ. Thông thường, khi
học ngoại ngữ luôn diễn ra quá trình phân tích đối chiếu ít nhất là hai
ngôn ngữ : tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ được học, và ngược lại, ngoại ngữ
được học và tiếng mẹ đẻ. L.V.Serba đã nêu một luận điểm quan trọng là
không chỉ đối chiếu tiếng nước ngoài với tiếng mẹ đẻ, mà còn đối chiếu
tiếng mẹ đẻ với tiếng nước ngoài. Bằng phương thức này, việc học ngoại
ngữ là phương tiện tối ưu để hiểu sâu sắc thêm tiếng mẹ đẻ. Nhưng nếu ý
nghĩa của ngoại ngữ là to lớn đối với bản ngữ, thì hiển nhiên là bản
ngữ cũng có ý nghĩa trọng đại đối với việc học ngoại ngữ. Xuất phát từ
những lợi ích của đối chiếu bản ngữ và ngoại ngữ vì các mục đích học
tập, tồn tại một số nguyên tắc chung cho việc đối chiếu như vậy.

Một số vấn đề phân tích đối chiếu trong tiếng Việt và tiếng Anh thuộc lĩnh vực khoa học



Đối chiếu ngôn ngữ không phân biệt không gian và biên giới của các
ngôn ngữ được đối chiếu. Các ngôn ngữ khi đối chiếu có thể là ngôn ngữ
của các dân tộc liền kề, trên cùng lãnh thổ hoặc ở các vùng, miền rất
khác nhau trên thế giới.

Tiếng Việt khoa học chỉ bắt đầu phát triển khi đất nước vào
giai đoạn mở cửa và thực sự phát triển khi Việt Nam tiến hành công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập toàn cầu. Quá trình hội nhập
đòi hỏi phát triển ngôn ngữ (ngoại ngữ và bản ngữ) để giao lưu quốc tế
và chuyển giao công nghệ.

Theo nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù việc định hướng cho giáo
dục ngôn ngữ thuộc lĩnh vực khoa học còn chưa rõ nét, song cũng đã có
những báo cáo khoa học tại các hội nghị, hội thảo khoa học về ngôn ngữ
như các cuộc hội thảo "Ngữ học trẻ" 2002, 2003, 2004, Hội thảo đào tạo
Sau đại học - ĐHNN - ĐHQG Hà Nội 2002, các cuộc hội thảo về Ngôn ngữ và
Văn hóa tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh v.v. Chúng tôi thấy rằng
trong vài năm trở lại đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ
khoa học được trình bày dưới dạng các bài báo cáo khoa học, luận văn
cao học, luận án tiến sĩ.

Như vậy, việc nghiên cứu ngôn ngữ Việt thuộc lĩnh vực khoa học
đã bắt đầu có bước khởi xướng đáng ghi nhận. Các tác phẩm và tài liệu
khoa học được dịch sang tiếng Việt từ các ngoại ngữ khác nhau đã bắt
đầu được các nhà ngôn ngữ học đề cập đến khi phân tích đối chiếu ngôn
ngữ.
Chúng tôi đã tiến hành khảo cứu các cấu trúc câu thường được sử dụng
trong văn bản khoa học được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, cụ thể
là văn bản dịch "Giới thiệu chung về lí thuyết viễn thông" (General
Introduction of Telecommunication Theory) của nhà xuất bản Thanh niên.
Trong 162 trang được dịch sang tiếng Việt, có 1743 câu được sử dụng,
trong đó:

- Câu đơn: 1279, chiếm 73,38%

- Câu phức: 161, chiếm 9,24%

- Câu ghép: 303, chiếm 17,38%.

Một đặc điểm cần được lưu ý là do chịu ảnh hưởng của việc sử
dụng câu trong văn bản khoa học nước ngoài như Anh, Nga, Pháp, v.v. nên
trong những năm gần đây xuất hiện xu hướng sử dụng cấu trúc bị động
trong văn bản khoa học tiếng Việt, đặc biệt là các văn bản dịch, điều
mà trước đây hoàn toàn không phổ biến. Các cấu trúc bị động chiếm tỉ lệ
rất cao trong toàn bộ văn bản. Trong số 669 cấu trúc câu bị động được
chúng tôi khảo sát, các cấu trúc bị động đơn chiếm đa phần:

- Cấu trúc bị động đơn: 537, chiếm 80,27%

- Cấu trúc bị động phức: 40, chiếm 5,98%

- Cấu trúc bị động ghép: 92, chiếm 13,75%

- Cấu trúc vô nhân xưng chiếm tỉ lệ tương xứng: 118.

Trong quá trình tiếp ngữ pháp văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ
khoa học không thể thiếu sự tham gia của khoa học đối chiếu các ngôn
ngữ. Đối chiếu là phương pháp nghiên cứu cơ bản của ngôn ngữ học được
sử dụng để nhận biết và phân biệt tương đương các cấu trúc, các hoạt
động và sự phát triển của ngôn ngữ. Điều này đặc biệt quan trọng đối
với việc dịch văn bản, bởi vì nếu không nắm vững được các nguyên tắc
đối chiếu ngôn ngữ, người dịch dễ dịch theo cảm tính, đặc biệt đối với
các trường hợp khi gặp cấu trúc cú pháp phức tạp.
Hiện nay tồn tại và phát triển phương pháp đối chiếu theo hai
chiều. Khi đối chiếu ngôn ngữ hai chiều, luôn xuất hiện các đặc điểm
của cả hai ngôn ngữ được đối chiếu. Nguyên tắc đối chiếu hai chiều cho
phép phát hiện toàn bộ các giao thoa ngôn ngữ, làm sáng tỏ các dấu hiệu
ngôn ngữ chưa được phát hiện khi đối chiếu một chiều của ngôn ngữ thứ
nhất, cũng như thứ hai.
Nguyên tắc này đòi hỏi đối chiếu ngôn ngữ cần được tiến hành trên cơ sở
cùng một phong cách chức năng. Các văn bản được phân tích đối chiếu cần
phải thuộc về cùng thể loại phong cách chức năng. Các văn bản được đối
chiếu theo phương pháp này là văn bản khoa học công nghệ viễn thông.

Trước khi tiến hành đối chiếu ngôn ngữ, cần xác định các thuật
ngữ sao cho chúng biểu đạt một cách tương đương các hiện tượng được đối
chiếu trong cả hai ngôn ngữ, nghĩa là cần tạo lập các đặc điểm tương
ứng chung để đối chiếu các hiện tượng ngôn ngữ. Các ngôn ngữ được mô tả
bằng thuật ngữ có nội dung hàm chứa khác nhau thì không thể tiến hành
đối chiếu với nhau được.
Trong phần đối chiếu dưới đây chúng tôi trình bày các điểm
không tương đồng về cấu trúc và ngữ nghĩa trong câu dịch so với các cấu
trúc câu trong văn bản tiếng Anh và các lỗi mắc phải trong văn bản
tiếng Việt.

Một số cấu trúc câu dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt không đúng về ngữ nghĩa và cách sửa lỗi



Cuốn sách "Giới thiệu chung về lí thuyết viễn thông" (General
Introduction of Telecommunication Theory) của nhà xuất bản Thanh niên
mà chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu có nội dung khoa học thực tiễn và
có giá trị. Trong phần dịch sang tiếng Việt tồn tại các lỗi về ngữ
nghĩa, phong cách và chính tả.

1. Lỗi thuật ngữ, cụm từ và dấu câu:

Câu đã được dịch sang tiếng Việt Câu nguyên bản tiếng Anh
Sau đó ít lâu con người phát sinh ra tín hiệu bằng lửa có khả năng
truyền đạt các thông tin có hiệu quả và nhanh chóng khi tới các vùng
xa. (tr.23)
A little later, men invented the signal fire capable of
transmitting messages effectively and rapidly to distant places.
(tr.22)


Đối chiếu nghĩa các thuật ngữ phát sinh và invented cho thấy:

Phát sinh: dg. Bắt đầu sinh ra, nảy sinh ra (thường nói về cái
không hay). Bệnh cúm thường phát sinh vào đầu mùa hè. Giải quyết mâu
thuẫn mới phát sinh. Phát sinh vấn đề. (Viện Ngôn ngữ học, Từ điển
tiếng Việt, NXB.Đà nẵng, 2003, tr.769).
Invented: v. To discover, as by study or inquiry; to find out;
to devise; to contrive or produce for the first time; - applied
commonly to the discovery of some serviceable mode, instrument, or
machine. (Từ điển New Oxford, 2001).

Như vậy, có thể thấy rằng invented không thể dịch là phát sinh,
mà phải dịch là tìm thấy hoặc phát hiện. Trong tiếng Việt, không tồn
tại nghĩa con người phát sinh ra. Đây là các thuật ngữ có tương đồng về
nghĩa và khó dịch sai.

Đối chiếu các cụm từ tín hiệu bằng lửa và signal fire cho thấy
việc dịch cụm từ trên là không đúng bởi vì cụm từ signal fire là cụm từ
có tương đồng trong tiếng Việt và được dịch là lửa dùng làm dấu hiệu
(để ra hiệu, dùng làm tín hiệu).

Trong ngữ pháp Việt và Anh, trạng ngữ chỉ thời gian được phân
biệt bởi dấu phẩy nếu đứng đầu câu để làm rõ nghĩa. Vì vậy, khi dịch
sang tiếng Việt, dấu phẩy này cần được giữ nguyên vị trí.
Như vậy, câu dịch trên cần phải sửa là:

Sau đó ít lâu, con người đã tìm ra lửa dùng làm tín hiệu có khả
năng truyền đạt các thông tin có hiệu quả và nhanh chóng tới các vùng
xa.

Trong câu dịch trên, theo chúng tôi, để câu ngắn gọn và dễ tiếp nhận hơn, có thể không dùng các:

Sau đó ít lâu, con người đã tìm ra lửa dùng làm tín hiệu có khả
năng truyền đạt thông tin có hiệu quả và nhanh chóng tới các vùng xa.

2. Lỗi ngữ nghĩa trong câu:

Câu đã được dịch sang tiếng Việt Câu nguyên bản tiếng Anh
Đồng thời việc xác minh này đã đưa ra các dịch vụ đưa thư và thông báo. (tr.25)
Also, this invention started the messenger and mail services. (tr.24)


Đối chiếu nghĩa từ cho thấy started không thể dịch là đã đưa ra mà phải dịch là đã bắt đầu, là khởi nguồn của.

Đối chiếu nghĩa từ cũng cho thấy dịch messenger với nghĩa thông báo là không đúng, mà phải dịch là đưa tin.

Như vậy, câu dịch trên cần sửa là:

Đồng thời việc xác minh này đã bắt đầu các dịch vụ đưa thư và đưa tin.

Câu dịch đã chỉnh sửa trên, tuy nhiên vẫn chưa phù hợp với tư
duy và cách vận dụng ngôn ngữ Việt, bởi vì có thể : bắt đầu một hiện
tượng (Phát minh bắt đầu được phổ biến rộng rãi.), mà không phải: một
hiện tượng bắt đầu một quá trình như câu dịch trên. Do vậy, câu tiếng
Anh có thể dịch như sau:

Đồng thời việc xác minh này là khởi nguồn của các hoạt động dịch vụ đưa thư và đưa tin.

3. Lỗi ghép nghĩa từ và dấu câu:

Câu đã được dịch sang tiếng Việt Câu nguyên bản tiếng Anh
Trong thế kỉ 21, việc phát triển áp dụng có tính thực tế về công
nghệ liên quan đang tiếp tục phát triển nhanh chóng và trong quá trình
đó, cách mạng hóa thế giới chúng ta. (tr.25)
In the XXI century, the development and practical
applications of related technology have continued to accelerate and, in
the process, revolutionized our world. (tr.24)


Đối chiếu nghĩa từ cho thấy cụm từ the development and practical
applications bao gồm một từ development và một nhóm từ riêng biệt
practical applications được nối với nhau bằng and và được xác định bởi
quán từ xác định the. Tương đồng của cụm từ trên trong tiếng Việt là sự
phát triển và ứng dụng thực tế.

Đối chiếu nghĩa từ cũng cho thấy các từ development và
applications đều có gốc của động từ cùng nghĩa là develop và apply. Vì
vậy, khi chuyển dịch sang tiếng Việt, cụm từ này có thể dịch theo dạng
cấu trúc V - O (vị ngữ - phó từ). Đây là một trong các cấu trúc tương
đồng Anh - Việt.

Cụm từ in the process tiếng Anh khi nằm giữa hai dấu phẩy thì
không còn giữ nguyên ý nghĩa ban đầu, mà trở thành từ đệm, thành ngữ và
có tương đồng trong tiếng Việt là cùng lúc. Trong trường hợp trên, từ
đệm trong tiếng Việt cũng phải được ngăn cách bởi hai dấu phẩy như
trong tiếng Anh.
Như vậy, câu dịch trên cần được chỉnh sửa như sau:

Trong thế kỉ 21, việc phát triển và ứng dụng thực tế các công
nghệ liên quan tiếp tục tăng tốc và, cùng lúc, cách mạng hóa thế giới
chúng ta.
4. Các loại lỗi khác:

4.1. Lỗi ngữ pháp:

Câu đã được dịch sang tiếng Việt Câu nguyên bản tiếng Anh
Sau chiến tranh, nhu cầu về các hệ tổng đài có khả năng xử lí các cuộc gọi đường dài tự động nhanh chóng đã tăng lên. (tr.33)
After the war, the demand for switching systems capable of
processing toll calls automatically and rapidly was increased. (tr.32)


Trong tiếng Anh, trạng ngữ được phân biệt bởi vĩ tố -ly và đứng sau
động từ và phó từ. Trong tiếng Việt, trạng ngữ có thể phân biệt được
nhờ thêm từ một cách. Trong trường hợp dễ làm người đọc hiểu nhầm, các
cấu trúc dạng như trên cần được dịch là:

Sau chiến tranh, nhu cầu về các hệ tổng đài có khả năng tự động và nhanh chóng xử lí các cuộc gọi đường dài đã tăng lên.

Hoặc : Sau chiến tranh, nhu cầu về các hệ tổng đài có khả năng
xử lí một cách tự động và nhanh chóng các cuộc gọi đường dài đã tăng
lên.

4.2. Lỗi chuyển dịch cấu trúc :

Câu đã được dịch sang tiếng Việt Câu nguyên bản tiếng Anh
Một kết quả không may mắn là nhiều sự khác biệt của khuôn khổ tín hiệu điều khiển và thủ tục tiến hành. (tr.173)
An unfortunate result was that many varieties of control signal format and procedures evolved. (tr.172)


Câu trên có cấu trúc là một trong các cấu trúc đặc trưng trong văn
bản khoa học tiếng Việt, nhưng dưới dạng cấu trúc không hoàn toàn giống
cấu trúc tiếng Anh. Câu trên cần dịch như sau:

Một điều không may là có sự tiến triển của nhiều loại quy trình và dạng thức tín hiệu điều khiển.

4.3. Lỗi chuyển dịch cấu trúc "both... and... "

Câu đã được dịch sang tiếng Việt Câu nguyên bản tiếng Anh
Khuôn khổ điều khiển phụ thuộc vào bản chất của cả hai hệ thống truyền dẫn và thiết bị đầu cuối của chúng. (tr.173)
The control formats depend on the nature of both the transmission system and its terminal equipment. (tr.172)


Both trong tiếng Anh tương đương với cả... và... , cả... và cả...
Trong trường hợp trên, không thể dịch cả hai... và... , vì cấu trúc này
của tiếng Việt không tương đương với both trong tiếng Anh. Do vậy, câu
trên cần dịch như sau:

Các dạng thức điều khiển phụ thuộc vào bản chất của cả hệ thống truyền dẫn và thiết bị đầu cuối của chúng. Hoặc:

Các dạng thức điều khiển phụ thuộc vào bản chất của cả hệ thống truyền dẫn và cả thiết bị đầu cuối của chúng.Hoặc:

Các dạng thức điều khiển phụ thuộc vào bản chất của cả hai: hệ thống truyền dẫn và thiết bị đầu cuối của chúng.

4.4. Lỗi chuyển dịch các thành phần câu:

Câu đã được dịch sang tiếng Việt Câu nguyên bản tiếng Anh
Ngoài ra, để thực hiện chuyển mạch phân chia thời gian có thể dùng
các chuyển mạch thời gian để trao đổi khe thời gian và chuyển mạch phân
chia thời gian để trao đổi theo không gian các khe thời gian được phân
chia theo thời gian. (tr.45)
In addition, for realization of time division switching,
time switches for exchanging time slot and time-shared division
switches for exchanging spatially the time divided time slots are
avaliable. (tr.44)


Câu trên cần sửa lại như sau:

Ngoài ra, để thực hiện chuyển mạch phân chia thời gian, có thể
dùng các chuyển mạch thời gian để trao đổi khe thời gian và dùng chuyển
mạch phân chia thời gian để trao đổi theo không gian các khe thời gian
được phân chia theo thời gian.

Tài liệu tham khảo



1. Tiếng Việt và dạy đại học bằng tiếng Việt, 1967, KHXH, H.

2. Nguyễn Tài Cẩn (chủ biên) 1981, Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam, Nxb.ĐH&THCN, H.

3. Trần Ngọc Thêm 1998, Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Giáo dục, H.

4. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ 1984, KHXH, H.

5. Vương Toàn (chủ biên) 1998, Việt ngữ học ở nước ngoài, H.

6. Ngôn ngữ và Văn hóa - 990 năm Thăng Long - Hà Nội 2000, Kỉ
yếu hội thảo của Hội Ngôn ngữ Hà Nội và Khoa Ngôn ngữ Đại học
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Pụmpanski A.E. 2002, Dịch văn bản khoa học và kĩ thuật sang tiếng Anh. Người dịch : Đào Hồng Thu, KHKT, H.

8. Các sách giáo khoa và tài liệu tham khảo tiếng Việt thực hành (chương trình dành cho đại học đại cương).

9. Các nguyên tắc phiên âm tiếng nước ngoài (các bài báo, tạp chí 1998, 1999).

10. Các sách về việc soạn thảo các thể loại văn bản khoa học và kĩ thuật.

ducthang

Tổng số bài gửi : 4
Join date : 14/10/2009

Về Đầu Trang Go down

Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng Empty Re: Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng

Bài gửi by Ta T. Thuy Nhung 10/11/09, 06:58 pm

cảm ơn bạn đã share bài này.lần sau bạn có thể gửi kèm địa chỉ web của bài để các bạn tìm hiểu thêm thì tốt hơn.
Ta T. Thuy Nhung
Ta T. Thuy Nhung

Tổng số bài gửi : 30
Join date : 22/10/2009

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang


 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết