Tìm kiếm
Latest topics
CẤU TRÚC CÚ PHÁP CỦA CÂU TIẾNG VIỆT:CHỦ -VỊ HAY ĐỀ - THUYẾT? (Part I)
2 posters
Trang 1 trong tổng số 1 trang
CẤU TRÚC CÚ PHÁP CỦA CÂU TIẾNG VIỆT:CHỦ -VỊ HAY ĐỀ - THUYẾT? (Part I)
CẤU TRÚC CÚ PHÁP CỦA CÂU TIẾNG VIỆT:
CHỦ -VỊ HAY ĐỀ - THUYẾT?
[*]
PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn
Trong Việt ngữ học hiện đang tồn tại hai quan niệm bất đồng về việc phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt: phân tích theo quan hệ chủ - vị hay phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Sự bất đồng này kéo theo những hệ lụy nhất định, gây khó khăn cho việc việc dạy và học tiếng Việt như một bản ngữ và như một ngoại ngữ. Vì vậy, dù muốn hay không, giới Việt ngữ học cũng phải tiếp tục tìm cách giải quyết bất đồng này nhằm tìm ra được một cách tiếp cận thỏa đáng đối với việc phân tích cấu trúc cú pháp tiếng Việt để ứng dụng vào thực tiễn dạy và học tiếng Việt. Bài viết này là một cố gắng đi theo hướng đó. Nội dung của bài viết gồm 2 phần: Phần một trình bày tổng quan các quan niệm khác nhau về phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt và những bất cập của các quan niệm này đối với việc phân tích cú pháp tiếng Việt. Phần hai đề xuất một cách tiếp cận mới về vấn đề hữu quan, trong đó xác nhận vai trò của cấu trúc chủ - vị với tư cách là cấu trúc cú pháp của cú nhằm mã hóa nghĩa biểu hiện của nó và vai trò của cấu trúc đề - thuyết với tư cách là cấu trúc cú pháp của câu nhằm tổ chức và truyền đạt một thông điệp.
1. Các hướng phân tích cấu trúc cú pháp của cú/câu tiếng Việt.
1.1 Hướng phân tích theo quan hệ chủ -vị.
Đây là hướng phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt phổ biến ở Việt Nam, hiện vẫn được sử dụng trong ngữ pháp nhà trường. Hướng phân tích này chịu ảnh hưởng cách tích phân tích cấu trúc câu theo quan hệ chủ - vị của ngữ pháp truyền thống châu Âu, đặc biệt là ngữ pháp tiếng Pháp. Trong các công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên đi theo hướng này (Trần Trọng Kim 1936, Phan Khôi 1948, Bùi Đức Tịnh 1952), cấu trúc cú pháp của câu thường được mô tả qua khái niệm mệnh đề với nòng cốt là cấu trúc chủ - vị. Theo Trần Trọng Kim (1936) thì: “phép đặt câu là phép đặt các tiếng thành mệnh đề và đặt các mệnh đề để lập thành câu” và “câu lập thành do một mệnh đề có nghĩa lọn hẳn, hoặc do hai hay nhiều mệnh đề”. Mệnh đề bao gồm hai thành phần chính là chủ từ (tiếng đứng làm chủ) và động từ hay tính từ (chỉ cái dụng hay cái thể của chủ từ); ngoài ra còn có túc từ phụ thêm cho chủ từ, động từ, tính từ (tr. 21-29). Để mô tả cấu trúc cú pháp của câu đơn, Phan Khôi (1948) đã xác định một danh sách thành phần câu đầy đủ hơn (gồm 6 thành phần: chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ, bổ túc ngữ, hình dung phụ gia ngữ và phó từ phụ gia ngữ) trong đó chủ ngữ và vị ngữ được coi là hai thành phần chủ yếu của câu: chủ ngữ “nói về cái gì, ấy tức là “chủ thể” trong câu”, còn “vị ngữ thì” thuật thuyết “cái thế nào” về chủ ngữ ấy”. (tr.196-197). Điều đáng lưu ý là Phan Khôi đã thay thế các thuật ngữ chủ từ/động từ bằng các thuật ngữ chủ ngữ/vị ngữ, phản ánh đúng hơn bản chất ngữ pháp (chức năng chứ không phải từ loại) và tính cấp độ (ngữ chứ không phải là từ) của các thành phần câu hữu quan. Bùi Đức Tịnh (1952) cũng cho rằng câu có một mệnh đề (tức câu đơn -NHC) gồm có hai phần: 1. Chủ ngữ: chỉ người hay vật được nói đến, 2. Tuyên ngữ: những gì để nói về người hay vật ấy” (tr.409).
Quan điểm cho rằng cấu trúc cú pháp của câu (đơn) tương ứng với cấu trúc chủ -vị của mệnh đề ngữ pháp (cú) được các nhà Việt ngữ học kế thừa và phát triển theo những hướng khác nhau. Hầu hết các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục hướng lưỡng phân cấu trúc cú pháp của mệnh đề/câu đơn theo quan hệ chủ -vị và dùng các thuật ngữ cụm từ chủ -vị (Nguyễn Kim Thản 1964), kết cấu chủ - vị (Hoàng Trọng Phiến 1980), cụm chủ -vị (Diệp Quang Ban 1984) hay câu chủ -vị (Lê Xuân Thại 1994) để chỉ kiểu cấu trúc này. Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng cấu trúc cú pháp của câu không phải là một kết cấu chủ -vị mà là một kết cấu tiêu điểm (focal construction) có vị ngữ làm trung tâm và các bổ ngữ tiêu điểm (focal complement), trong đó chủ ngữ cũng chỉ là một loại bổ ngữ (L.C Thompson 1965), hoặc là một cấu trúc nòng cốt tối giản gồm vị ngữ cùng các tham tố của nó là chủ ngữ và bổ ngữ bắt buộc (Nguyễn Minh Thuyết & Nguyễn Văn Hiệp 1998).
Mặc dù thống nhất dùng chủ ngữ và vị ngữ là hai thành phần chính của câu đơn/mệnh đề nhưng các tác giả theo hướng phân tích này chưa thống nhất với nhau về chức năng của chủ ngữ và vị ngữ. Một số tác giả cho rằng cấu trúc-chủ vị biểu hiện một sự tình, trong đó chủ ngữ thường biểu thị chủ thể của hành động (quá trình hay trạng thái) còn vị ngữ biểu thị hành động (quá trình, trạng thái của chủ thể). Chẳng hạn, theo Trần Trọng Kim (1936), “chủ từ” (chủ ngữ) biểu thị “cái thể của chủ từ” (tức chủ thể), còn tính từ và động từ thì chỉ “cái thể” (tính chất, trạng thái) và “cái dụng” (hành động, quá trình) của chủ từ (tr.21-29). Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1964) quan niệm câu đơn cú là câu diễn tả một sự tình, trong đó chủ từ biểu thị các chủ thể hay là “chủ sự” của sự tình. Tương tự, Diệp Quang Ban (1984) coi chủ ngữ là thành phần chính “chỉ ra cái đối tượng mà câu nói đề cập đến và hàm chứa hoặc có thể chấp nhận cái đặc trưng (hành động, trạng thái, tính chất,v.v…) sẽ được nói ở vị ngữ” (tr.119), còn vị ngữ là thành phần chính “nói lên cái đặc trưng vốn có ở vật hoặc có thể áp đặt hợp lý cho vật nói ở chủ ngữ” (tr. 142). Nói tóm lại, theo cách tiếp cận này cấu trúc chủ -vị có chủ ngữ (ngữ pháp) trùng với chủ thể lôgich (của sự tình).
Theo một số tác giả khác thì cấu trúc chủ -vị không chỉ có chức năng biểu hiện sự tình mà còn có chức năng truyền tải một thông điệp (hay biểu hiện một phán đoán, nói theo cách nói của lôgich học), thậm chí chức năng chủ yếu của nó là truyền tải thông điệp. Khi nói về câu, Bùi Đức Tịnh (1948) cho rằng câu: 1. Cho biết người hay vật được nói đến. 2. Trình bày một việc xảy ra cho người ấy hay vật ấy hoặc một ý kiến của ta về người hay vật ấy. (Tôi nhấn mạnh –NHC). Trên cơ sở đó, tác giả đã định nghĩa chủ ngữ và vị ngữ bằng chức năng của chúng trong việc tổ chức thông điệp chứ không phải bằng chức năng biểu hiện sự tình: 1. Chủ ngữ: chỉ người hay vật được nói tới, 2. Tuyên ngữ: những gì để nói về người hay vật. Theo cách hiểu này thì kết cấu chủ -vị có chủ ngữ không chỉ trùng với chủ thể lôgich mà cả với chủ thể tâm lý (“cái được nói tới”) của phán đoán. Sau Bùi Đức Tịnh, nhiều tác giả khác cũng nhấn mạnh đến chức năng tổ chức thông điệp của cấu trúc chủ -vị khi cho rằng chủ ngữ biểu hiện “sở đề” hay “cái nói đến” còn vị ngữ biểu thị “sở thuyết” hay “thuyết minh cho chủ ngữ” (Nguyễn Kim Thản 1964, Lê Xuân Thại 1994). Với cách nhìn này, hướng phân tích theo cấu trúc chủ -vị tiến gần đến hướng phân tích câu theo cấu trúc đề- thuyết. Tuy nhiên ngay cả khi thay đổi cách nhìn về chức năng của cấu trúc chủ -vị, mở rộng hơn ngoại diên của chủ ngữ và bổ sung thêm các chức năng khác như chủ đề, hay khởi ngữ…cách phân tích câu theo quan hệ chủ vị cũng chỉ bao quát được một phạm vi rất hạn hẹp các kiểu câu của tiếng Việt mà theo đánh giá của một số tác giả là khoảng 25% , thậm chí chỉ khoảng 15% (Tiểu ban tiếng Việt nhà trường, Hội Ngôn ngữ học TpHCM, 2004).
1.2. Hướng phân tích theo quan hệ đề - thuyết.
Hướng phân tích câu theo cấu trúc đề-thuyết xuất hiện trong Việt ngữ học trước hết do sự bất cập của hướng phân tích theo cấu trúc chủ -vị. Khi chuyển từ việc coi kết cấu chủ ngữ - vị ngữ có chức năng biểu thị sự tình sang chức năng truyền tải thông điệp (biểu thị một phán đoán hay nhận định), nhiều người nhà nghiên cứu theo quan điểm chủ -vị đã thấy rằng bên cạnh các kết cấu chủ -vị có chủ ngữ trùng với chủ thể tâm lí (ví dụ: “Giáp biết chuyện ấy”. “Họ giỏi lắm”) cũng có những trường hợp, chủ ngữ không trùng với chủ thể tâm lý, ví dụ: “Cái gì Giáp cũng biết”, “Bộ đội họ giỏi lắm”, “Miệng ông ông nói, đình làng ông ngồi…. Để phân biệt các chủ thể tâm lí không trùng với chủ ngữ (chủ thể ngữ pháp), các nhà nghiên cứu đã đề xuất thêm một thành phần câu mới là “chủ đề” (Trương Văn Chình- Nguyễn Hiến Lê 1964: 536), “khởi ngữ” (Nguyễn Kim Thản 1964), “đề ngữ” (Diệp Quang Ban 1984). Như vậy, thực chất việc đưa thêm các khái niệm “chủ đề”, “đề ngữ” hay “khởi ngữ”…chỉ là một giải pháp tình thế nhằm khắc phục sự chênh nhau giữa chủ ngữ (ngữ pháp) và chủ thể tâm lí, và điều đó cũng cho thấy sự hạn chế của kết cấu chủ -vị nói chung và khái niệm chủ ngữ nói riêng.
Để tránh những bất cập này của cách tiếp cận chủ -vị, với quan niệm coi câu là “một ngữ đoạn kết thúc, mang một thông báo hoàn chỉnh”, Lưu Vân Lăng (1970, 1986) đã đề xuất cách phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết thay cho cấu trúc chủ -vị, trong đó khái niệm đề được mở rộng, bao gồm không chỉ các chủ ngữ ngữ pháp điển mẫu (trùng với chủ thể lôgic và chủ thể tâm lí) mà cả một số trường hợp được các tác giả khác coi là khởi ngữ hay đề ngữ (Cái gì, anh giáp cũng biết) thậm chí là trạng ngữ (Xã bên, lúa tốt). Cấu trúc đề - thuyết được Lưu Vân Lăng phân biệt với cấu trúc thông tin cũ –mới của Lí thuyết phân đoạn thực tại và được áp dụng không chỉ cho câu mà cho cả cú. (Lưu Vân Lăng 1970/1998: 17). Chúng tôi sẽ quay trở lại vấn đề này ở phần sau khi đề cập đến mối quan hệ giữa cấu trúc chủ vị và cấu trúc đề- thuyết.
Các tác giả cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (UBKHXH 1983) cũng cho rằng nòng cốt cú pháp của câu đơn được xây dựng trên quan hệ đề- thuyết, bởi vì:
- Xét về quá trình tư duy, quan hệ đề thuyết …biểu thị một phán đoán, một sự phản ánh tương đối của thực tại nhất định vào nhận thức. Phán đoán gồm 2 yếu tố là sự vật, hiện tượng hay chủ đề và điều thấy được, biết được nhận thức về chủ đề.
- Xét về quá trình thông báo, quan hệ đề -thuyết…biểu thị một thông báo trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Thông báo cũng bao gồm hai yếu tố: yếu tố thứ nhất chỉ ra người nói “nói về gì” và yếu tố thứ hai chỉ ra người nói “nói gì”. (UBKHXH Việt Nam 1983/2002:209)
Tuy nhiên khi áp dụng vào thực tế phân tích câu thì các tác giả lại không đưa những trường hợp Lưu Vân Lăng cho là đề ngữ vào phần đề mà coi nó là thành phần tình huống (ví dụ, Xã bên, lúa tốt. - tr 239), hoặc thành phần khởi ý (ví dụ, Quyển sách này, tôi chỉ thấy bán ở đây. - tr.243). Vì vậy, cấu trúc đề - thuyết ở Ngữ pháp tiếng Việt của UBKHXH Việt Nam không khác nhiều lắm với cấu trúc chủ -vị theo quan niệm của nhiều tác giả.
Cao Xuân Hạo là người đầu tiên áp dụng một cách triệt để quan hệ đề - thuyết vào việc phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt. Trong công trình “Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp chức năng” (1991) Cao Xuân Hạo cho rằng cần phải thay cách phân tích câu tiếng Việt theo quan hệ chủ vị mà theo tác giả là đã được bê nguyên xi từ tiếng Pháp vào tiếng Việt do tư tưởng “dĩ Âu vi trung” bằng cách phân tích theo quan hệ đề- thuyết cho phù hợp với đặc điểm loại hình của tiếng Việt là một ngôn ngữ thiên chủ đề. Theo đó, câu với tư cách là đơn vị “thông báo một mệnh đề” hay “phản ánh một nhận định” được cấu trúc hóa thành hai phần đề và thuyết, trong đó “đề là điểm xuất phát, là cái cơ sở, cái điểm tựa làm bàn đạp cho đà triển khai của câu” ở phần thuyết (Cao Xuân Hạo 1991/2004: 50-51). Với cách hiểu này, trong cấu trúc đề - thuyết của Cao Xuân Hạo, phần đề không chỉ bao gồm các chủ ngữ điển mẫu (Tôi xem phim này rồi), chủ đề hay khởi ngữ (ví dụ, Tôi tên là Nam, Phim này tôi xem rồi) mà cả những trường hợp các tác giả khác coi là trạng ngữ (Mai, mẹ về. Ở đây mọi người đều làm việc), tình thái ngữ (Theo tôi, Nam thế nào cũng trúng cử), thành phần câu ghép (Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy) hoặc bị gạt sang một bên như những trường hợp ngoại lệ (Chó treo, mèo đậy. Cần tái, cải nhừ) vv. Cách phân tích theo quan hệ đề - thuyết như vậy được Cao Xuân Hạo không chỉ áp dụng cho câu mà cả ngữ đoạn dưới câu là tiểu cú. Mặc dù còn nhiều tranh cãi nhưng không thể không thừa nhận rằng cách phân tích cấu trúc câu theo quan hệ chủ -vị của Cao Xuân Hạo đã giải quyết được hàng loạt các trường hợp bế tắc nếu phân tích theo quan hệ chủ vị (theo đánh giá của những người ủng hộ quan niệm này thì các câu kiểu này có thể lên tới 86%) và mở ra khả năng ứng dụng vào việc dạy viết và chữa lỗi câu tiếng Việt cho người Việt và người nước ngoài theo một cách tiếp cận mới.
Tuy nhiên, chấp nhận cách phân tích cú/câu tiếng Việt theo cấu trúc đề -thuyết nhưng lại loại bỏ hoàn toàn cấu trúc chủ -vị và các chức năng cú pháp truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ…ra khỏi hệ thống ngữ pháp tiếng Việt chưa hẳn là một giải pháp thỏa đáng, đặc biệt khi xem xét vấn đề dưới góc độ loại hình và phổ niệm ngôn ngữ. Bởi vì, thứ nhất, giải pháp này vạch ra một ranh giới quá rạch ròi, thậm chí gần như đối lập giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ được coi là chỉ có chủ đề mà không có chủ ngữ với các ngôn ngữ chỉ có chủ ngữ mà không có chủ đề, một sự đối lập mà ngay cả các tác giả đề xuất phân biệt các loại hình “thiên chủ ngữ” và “thiên chủ đề” cũng chưa nói tới. Thứ hai, nếu xem xét cấu trúc chủ -vị dưới góc độ lí thuyết điển mẫu, chúng ta có thể thấy rằng có hàng loạt các câu tiếng Việt tương ứng với câu có cấu trúc chủ -vị trong các ngôn ngữ khác, mặc dù giữa chúng có thể khác nhau về hình thức đánh dấu hay trật tự từ, và đó chính là cơ sở cho các nghiên cứu về loại hình học hình thái cách (phân biệt các ngôn ngữ đối cách với các ngôn ngữ khiển cách, tuyệt cách, tam phân hay trung hòa) hay loại hình trật tự từ (phân biệt các ngôn ngữ SVO, SOV, VOS, v.v) mà tiếng Việt không phải là một ngoại lệ về mặt loại hình. Thứ ba, nếu đối lập một cách triệt để cách phân tích cú pháp câu tiếng Việt với câu của các ngôn ngữ khác sẽ tạo ra những khó khăn nhất định về mặt ứng dụng, đặc biệt là trong việc dạy và học ngoại ngữ cũng như dạy và học tiếng Việt như một ngoại ngữ.
Chính vì vậy chúng tôi cho rằng cần phải tìm một giải pháp mô tả cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt trong đó có sự kế thừa cả hai hướng phân tích theo quan hệ chủ -vị và phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Do khuôn khổ bài viết có hạn, duới đây chúng tôi chỉ trình bày những suy nghĩ bước đầu của giải pháp này.
CHỦ -VỊ HAY ĐỀ - THUYẾT?
[*]
PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn
Trong Việt ngữ học hiện đang tồn tại hai quan niệm bất đồng về việc phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt: phân tích theo quan hệ chủ - vị hay phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Sự bất đồng này kéo theo những hệ lụy nhất định, gây khó khăn cho việc việc dạy và học tiếng Việt như một bản ngữ và như một ngoại ngữ. Vì vậy, dù muốn hay không, giới Việt ngữ học cũng phải tiếp tục tìm cách giải quyết bất đồng này nhằm tìm ra được một cách tiếp cận thỏa đáng đối với việc phân tích cấu trúc cú pháp tiếng Việt để ứng dụng vào thực tiễn dạy và học tiếng Việt. Bài viết này là một cố gắng đi theo hướng đó. Nội dung của bài viết gồm 2 phần: Phần một trình bày tổng quan các quan niệm khác nhau về phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt và những bất cập của các quan niệm này đối với việc phân tích cú pháp tiếng Việt. Phần hai đề xuất một cách tiếp cận mới về vấn đề hữu quan, trong đó xác nhận vai trò của cấu trúc chủ - vị với tư cách là cấu trúc cú pháp của cú nhằm mã hóa nghĩa biểu hiện của nó và vai trò của cấu trúc đề - thuyết với tư cách là cấu trúc cú pháp của câu nhằm tổ chức và truyền đạt một thông điệp.
1. Các hướng phân tích cấu trúc cú pháp của cú/câu tiếng Việt.
1.1 Hướng phân tích theo quan hệ chủ -vị.
Đây là hướng phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt phổ biến ở Việt Nam, hiện vẫn được sử dụng trong ngữ pháp nhà trường. Hướng phân tích này chịu ảnh hưởng cách tích phân tích cấu trúc câu theo quan hệ chủ - vị của ngữ pháp truyền thống châu Âu, đặc biệt là ngữ pháp tiếng Pháp. Trong các công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên đi theo hướng này (Trần Trọng Kim 1936, Phan Khôi 1948, Bùi Đức Tịnh 1952), cấu trúc cú pháp của câu thường được mô tả qua khái niệm mệnh đề với nòng cốt là cấu trúc chủ - vị. Theo Trần Trọng Kim (1936) thì: “phép đặt câu là phép đặt các tiếng thành mệnh đề và đặt các mệnh đề để lập thành câu” và “câu lập thành do một mệnh đề có nghĩa lọn hẳn, hoặc do hai hay nhiều mệnh đề”. Mệnh đề bao gồm hai thành phần chính là chủ từ (tiếng đứng làm chủ) và động từ hay tính từ (chỉ cái dụng hay cái thể của chủ từ); ngoài ra còn có túc từ phụ thêm cho chủ từ, động từ, tính từ (tr. 21-29). Để mô tả cấu trúc cú pháp của câu đơn, Phan Khôi (1948) đã xác định một danh sách thành phần câu đầy đủ hơn (gồm 6 thành phần: chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ, bổ túc ngữ, hình dung phụ gia ngữ và phó từ phụ gia ngữ) trong đó chủ ngữ và vị ngữ được coi là hai thành phần chủ yếu của câu: chủ ngữ “nói về cái gì, ấy tức là “chủ thể” trong câu”, còn “vị ngữ thì” thuật thuyết “cái thế nào” về chủ ngữ ấy”. (tr.196-197). Điều đáng lưu ý là Phan Khôi đã thay thế các thuật ngữ chủ từ/động từ bằng các thuật ngữ chủ ngữ/vị ngữ, phản ánh đúng hơn bản chất ngữ pháp (chức năng chứ không phải từ loại) và tính cấp độ (ngữ chứ không phải là từ) của các thành phần câu hữu quan. Bùi Đức Tịnh (1952) cũng cho rằng câu có một mệnh đề (tức câu đơn -NHC) gồm có hai phần: 1. Chủ ngữ: chỉ người hay vật được nói đến, 2. Tuyên ngữ: những gì để nói về người hay vật ấy” (tr.409).
Quan điểm cho rằng cấu trúc cú pháp của câu (đơn) tương ứng với cấu trúc chủ -vị của mệnh đề ngữ pháp (cú) được các nhà Việt ngữ học kế thừa và phát triển theo những hướng khác nhau. Hầu hết các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục hướng lưỡng phân cấu trúc cú pháp của mệnh đề/câu đơn theo quan hệ chủ -vị và dùng các thuật ngữ cụm từ chủ -vị (Nguyễn Kim Thản 1964), kết cấu chủ - vị (Hoàng Trọng Phiến 1980), cụm chủ -vị (Diệp Quang Ban 1984) hay câu chủ -vị (Lê Xuân Thại 1994) để chỉ kiểu cấu trúc này. Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng cấu trúc cú pháp của câu không phải là một kết cấu chủ -vị mà là một kết cấu tiêu điểm (focal construction) có vị ngữ làm trung tâm và các bổ ngữ tiêu điểm (focal complement), trong đó chủ ngữ cũng chỉ là một loại bổ ngữ (L.C Thompson 1965), hoặc là một cấu trúc nòng cốt tối giản gồm vị ngữ cùng các tham tố của nó là chủ ngữ và bổ ngữ bắt buộc (Nguyễn Minh Thuyết & Nguyễn Văn Hiệp 1998).
Mặc dù thống nhất dùng chủ ngữ và vị ngữ là hai thành phần chính của câu đơn/mệnh đề nhưng các tác giả theo hướng phân tích này chưa thống nhất với nhau về chức năng của chủ ngữ và vị ngữ. Một số tác giả cho rằng cấu trúc-chủ vị biểu hiện một sự tình, trong đó chủ ngữ thường biểu thị chủ thể của hành động (quá trình hay trạng thái) còn vị ngữ biểu thị hành động (quá trình, trạng thái của chủ thể). Chẳng hạn, theo Trần Trọng Kim (1936), “chủ từ” (chủ ngữ) biểu thị “cái thể của chủ từ” (tức chủ thể), còn tính từ và động từ thì chỉ “cái thể” (tính chất, trạng thái) và “cái dụng” (hành động, quá trình) của chủ từ (tr.21-29). Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1964) quan niệm câu đơn cú là câu diễn tả một sự tình, trong đó chủ từ biểu thị các chủ thể hay là “chủ sự” của sự tình. Tương tự, Diệp Quang Ban (1984) coi chủ ngữ là thành phần chính “chỉ ra cái đối tượng mà câu nói đề cập đến và hàm chứa hoặc có thể chấp nhận cái đặc trưng (hành động, trạng thái, tính chất,v.v…) sẽ được nói ở vị ngữ” (tr.119), còn vị ngữ là thành phần chính “nói lên cái đặc trưng vốn có ở vật hoặc có thể áp đặt hợp lý cho vật nói ở chủ ngữ” (tr. 142). Nói tóm lại, theo cách tiếp cận này cấu trúc chủ -vị có chủ ngữ (ngữ pháp) trùng với chủ thể lôgich (của sự tình).
Theo một số tác giả khác thì cấu trúc chủ -vị không chỉ có chức năng biểu hiện sự tình mà còn có chức năng truyền tải một thông điệp (hay biểu hiện một phán đoán, nói theo cách nói của lôgich học), thậm chí chức năng chủ yếu của nó là truyền tải thông điệp. Khi nói về câu, Bùi Đức Tịnh (1948) cho rằng câu: 1. Cho biết người hay vật được nói đến. 2. Trình bày một việc xảy ra cho người ấy hay vật ấy hoặc một ý kiến của ta về người hay vật ấy. (Tôi nhấn mạnh –NHC). Trên cơ sở đó, tác giả đã định nghĩa chủ ngữ và vị ngữ bằng chức năng của chúng trong việc tổ chức thông điệp chứ không phải bằng chức năng biểu hiện sự tình: 1. Chủ ngữ: chỉ người hay vật được nói tới, 2. Tuyên ngữ: những gì để nói về người hay vật. Theo cách hiểu này thì kết cấu chủ -vị có chủ ngữ không chỉ trùng với chủ thể lôgich mà cả với chủ thể tâm lý (“cái được nói tới”) của phán đoán. Sau Bùi Đức Tịnh, nhiều tác giả khác cũng nhấn mạnh đến chức năng tổ chức thông điệp của cấu trúc chủ -vị khi cho rằng chủ ngữ biểu hiện “sở đề” hay “cái nói đến” còn vị ngữ biểu thị “sở thuyết” hay “thuyết minh cho chủ ngữ” (Nguyễn Kim Thản 1964, Lê Xuân Thại 1994). Với cách nhìn này, hướng phân tích theo cấu trúc chủ -vị tiến gần đến hướng phân tích câu theo cấu trúc đề- thuyết. Tuy nhiên ngay cả khi thay đổi cách nhìn về chức năng của cấu trúc chủ -vị, mở rộng hơn ngoại diên của chủ ngữ và bổ sung thêm các chức năng khác như chủ đề, hay khởi ngữ…cách phân tích câu theo quan hệ chủ vị cũng chỉ bao quát được một phạm vi rất hạn hẹp các kiểu câu của tiếng Việt mà theo đánh giá của một số tác giả là khoảng 25% , thậm chí chỉ khoảng 15% (Tiểu ban tiếng Việt nhà trường, Hội Ngôn ngữ học TpHCM, 2004).
1.2. Hướng phân tích theo quan hệ đề - thuyết.
Hướng phân tích câu theo cấu trúc đề-thuyết xuất hiện trong Việt ngữ học trước hết do sự bất cập của hướng phân tích theo cấu trúc chủ -vị. Khi chuyển từ việc coi kết cấu chủ ngữ - vị ngữ có chức năng biểu thị sự tình sang chức năng truyền tải thông điệp (biểu thị một phán đoán hay nhận định), nhiều người nhà nghiên cứu theo quan điểm chủ -vị đã thấy rằng bên cạnh các kết cấu chủ -vị có chủ ngữ trùng với chủ thể tâm lí (ví dụ: “Giáp biết chuyện ấy”. “Họ giỏi lắm”) cũng có những trường hợp, chủ ngữ không trùng với chủ thể tâm lý, ví dụ: “Cái gì Giáp cũng biết”, “Bộ đội họ giỏi lắm”, “Miệng ông ông nói, đình làng ông ngồi…. Để phân biệt các chủ thể tâm lí không trùng với chủ ngữ (chủ thể ngữ pháp), các nhà nghiên cứu đã đề xuất thêm một thành phần câu mới là “chủ đề” (Trương Văn Chình- Nguyễn Hiến Lê 1964: 536), “khởi ngữ” (Nguyễn Kim Thản 1964), “đề ngữ” (Diệp Quang Ban 1984). Như vậy, thực chất việc đưa thêm các khái niệm “chủ đề”, “đề ngữ” hay “khởi ngữ”…chỉ là một giải pháp tình thế nhằm khắc phục sự chênh nhau giữa chủ ngữ (ngữ pháp) và chủ thể tâm lí, và điều đó cũng cho thấy sự hạn chế của kết cấu chủ -vị nói chung và khái niệm chủ ngữ nói riêng.
Để tránh những bất cập này của cách tiếp cận chủ -vị, với quan niệm coi câu là “một ngữ đoạn kết thúc, mang một thông báo hoàn chỉnh”, Lưu Vân Lăng (1970, 1986) đã đề xuất cách phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết thay cho cấu trúc chủ -vị, trong đó khái niệm đề được mở rộng, bao gồm không chỉ các chủ ngữ ngữ pháp điển mẫu (trùng với chủ thể lôgic và chủ thể tâm lí) mà cả một số trường hợp được các tác giả khác coi là khởi ngữ hay đề ngữ (Cái gì, anh giáp cũng biết) thậm chí là trạng ngữ (Xã bên, lúa tốt). Cấu trúc đề - thuyết được Lưu Vân Lăng phân biệt với cấu trúc thông tin cũ –mới của Lí thuyết phân đoạn thực tại và được áp dụng không chỉ cho câu mà cho cả cú. (Lưu Vân Lăng 1970/1998: 17). Chúng tôi sẽ quay trở lại vấn đề này ở phần sau khi đề cập đến mối quan hệ giữa cấu trúc chủ vị và cấu trúc đề- thuyết.
Các tác giả cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (UBKHXH 1983) cũng cho rằng nòng cốt cú pháp của câu đơn được xây dựng trên quan hệ đề- thuyết, bởi vì:
- Xét về quá trình tư duy, quan hệ đề thuyết …biểu thị một phán đoán, một sự phản ánh tương đối của thực tại nhất định vào nhận thức. Phán đoán gồm 2 yếu tố là sự vật, hiện tượng hay chủ đề và điều thấy được, biết được nhận thức về chủ đề.
- Xét về quá trình thông báo, quan hệ đề -thuyết…biểu thị một thông báo trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Thông báo cũng bao gồm hai yếu tố: yếu tố thứ nhất chỉ ra người nói “nói về gì” và yếu tố thứ hai chỉ ra người nói “nói gì”. (UBKHXH Việt Nam 1983/2002:209)
Tuy nhiên khi áp dụng vào thực tế phân tích câu thì các tác giả lại không đưa những trường hợp Lưu Vân Lăng cho là đề ngữ vào phần đề mà coi nó là thành phần tình huống (ví dụ, Xã bên, lúa tốt. - tr 239), hoặc thành phần khởi ý (ví dụ, Quyển sách này, tôi chỉ thấy bán ở đây. - tr.243). Vì vậy, cấu trúc đề - thuyết ở Ngữ pháp tiếng Việt của UBKHXH Việt Nam không khác nhiều lắm với cấu trúc chủ -vị theo quan niệm của nhiều tác giả.
Cao Xuân Hạo là người đầu tiên áp dụng một cách triệt để quan hệ đề - thuyết vào việc phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt. Trong công trình “Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp chức năng” (1991) Cao Xuân Hạo cho rằng cần phải thay cách phân tích câu tiếng Việt theo quan hệ chủ vị mà theo tác giả là đã được bê nguyên xi từ tiếng Pháp vào tiếng Việt do tư tưởng “dĩ Âu vi trung” bằng cách phân tích theo quan hệ đề- thuyết cho phù hợp với đặc điểm loại hình của tiếng Việt là một ngôn ngữ thiên chủ đề. Theo đó, câu với tư cách là đơn vị “thông báo một mệnh đề” hay “phản ánh một nhận định” được cấu trúc hóa thành hai phần đề và thuyết, trong đó “đề là điểm xuất phát, là cái cơ sở, cái điểm tựa làm bàn đạp cho đà triển khai của câu” ở phần thuyết (Cao Xuân Hạo 1991/2004: 50-51). Với cách hiểu này, trong cấu trúc đề - thuyết của Cao Xuân Hạo, phần đề không chỉ bao gồm các chủ ngữ điển mẫu (Tôi xem phim này rồi), chủ đề hay khởi ngữ (ví dụ, Tôi tên là Nam, Phim này tôi xem rồi) mà cả những trường hợp các tác giả khác coi là trạng ngữ (Mai, mẹ về. Ở đây mọi người đều làm việc), tình thái ngữ (Theo tôi, Nam thế nào cũng trúng cử), thành phần câu ghép (Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy) hoặc bị gạt sang một bên như những trường hợp ngoại lệ (Chó treo, mèo đậy. Cần tái, cải nhừ) vv. Cách phân tích theo quan hệ đề - thuyết như vậy được Cao Xuân Hạo không chỉ áp dụng cho câu mà cả ngữ đoạn dưới câu là tiểu cú. Mặc dù còn nhiều tranh cãi nhưng không thể không thừa nhận rằng cách phân tích cấu trúc câu theo quan hệ chủ -vị của Cao Xuân Hạo đã giải quyết được hàng loạt các trường hợp bế tắc nếu phân tích theo quan hệ chủ vị (theo đánh giá của những người ủng hộ quan niệm này thì các câu kiểu này có thể lên tới 86%) và mở ra khả năng ứng dụng vào việc dạy viết và chữa lỗi câu tiếng Việt cho người Việt và người nước ngoài theo một cách tiếp cận mới.
Tuy nhiên, chấp nhận cách phân tích cú/câu tiếng Việt theo cấu trúc đề -thuyết nhưng lại loại bỏ hoàn toàn cấu trúc chủ -vị và các chức năng cú pháp truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ…ra khỏi hệ thống ngữ pháp tiếng Việt chưa hẳn là một giải pháp thỏa đáng, đặc biệt khi xem xét vấn đề dưới góc độ loại hình và phổ niệm ngôn ngữ. Bởi vì, thứ nhất, giải pháp này vạch ra một ranh giới quá rạch ròi, thậm chí gần như đối lập giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ được coi là chỉ có chủ đề mà không có chủ ngữ với các ngôn ngữ chỉ có chủ ngữ mà không có chủ đề, một sự đối lập mà ngay cả các tác giả đề xuất phân biệt các loại hình “thiên chủ ngữ” và “thiên chủ đề” cũng chưa nói tới. Thứ hai, nếu xem xét cấu trúc chủ -vị dưới góc độ lí thuyết điển mẫu, chúng ta có thể thấy rằng có hàng loạt các câu tiếng Việt tương ứng với câu có cấu trúc chủ -vị trong các ngôn ngữ khác, mặc dù giữa chúng có thể khác nhau về hình thức đánh dấu hay trật tự từ, và đó chính là cơ sở cho các nghiên cứu về loại hình học hình thái cách (phân biệt các ngôn ngữ đối cách với các ngôn ngữ khiển cách, tuyệt cách, tam phân hay trung hòa) hay loại hình trật tự từ (phân biệt các ngôn ngữ SVO, SOV, VOS, v.v) mà tiếng Việt không phải là một ngoại lệ về mặt loại hình. Thứ ba, nếu đối lập một cách triệt để cách phân tích cú pháp câu tiếng Việt với câu của các ngôn ngữ khác sẽ tạo ra những khó khăn nhất định về mặt ứng dụng, đặc biệt là trong việc dạy và học ngoại ngữ cũng như dạy và học tiếng Việt như một ngoại ngữ.
Chính vì vậy chúng tôi cho rằng cần phải tìm một giải pháp mô tả cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt trong đó có sự kế thừa cả hai hướng phân tích theo quan hệ chủ -vị và phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Do khuôn khổ bài viết có hạn, duới đây chúng tôi chỉ trình bày những suy nghĩ bước đầu của giải pháp này.
Hoàng Khánh Chi- Tổng số bài gửi : 16
Join date : 18/10/2009
Re: CẤU TRÚC CÚ PHÁP CỦA CÂU TIẾNG VIỆT:CHỦ -VỊ HAY ĐỀ - THUYẾT? (Part I)
em dang len vay rat cong phu. Tot.Tuy nhien phai trich chinh xac nguon tai lieu
ThayLe- Tổng số bài gửi : 135
Join date : 22/09/2009
Hoàng Khánh Chi- Tổng số bài gửi : 16
Join date : 18/10/2009
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
08/05/15, 02:37 pm by nhi liễu
» Đối chiếu câu nghi vấn trong tiếng Việt và tiếng Anh. (Nhóm 7)
05/10/13, 08:03 pm by lathaivietpen
» Nhận làm thủ tục Hải quan – giao nhận XNK giá rẻ.
19/04/13, 04:26 pm by vietxnk
» Quán Cafe Đẹp YESTERDAY PIANO CAFÉ.
08/04/13, 08:43 pm by nhokbmt
» Quán Cafe Đẹp YESTERDAY PIANO CAFÉ.
08/04/13, 07:29 pm by nhokbmt
» Tăng like Facebook giá rẻ, tăng like FanPages giá rẻ, like ảnh , câu sub
27/02/13, 11:58 am by nhokbmt
» Tăng like Facebook giá rẻ, tăng like FanPages giá rẻ, like ảnh , câu sub
27/02/13, 11:48 am by nhokbmt
» Làm thủ tục hải quan – giao nhận XNK giá rẻ
19/09/12, 03:48 pm by nhokbmt
» Làm thủ tục hải quan – giao nhận XNK giá rẻ
19/09/12, 03:47 pm by nhokbmt